Hoàng Phi

Chương 4 : Sóng yên biển lặng

Chương 4: Sóng yên biển lặng Tĩnh Túc thấy vậy thì vội chạy vào báo với chủ, Thái hậu trầm ngâm suy xét: “Hiện giờ Quan gia căn cơ chưa vững, nay ta đuổi cùng diệt tân thì cũng chỉ làm cho những kẻ phản thần có thời cơ. Cho người thay y phục cho bà ta rồi mang về Thái miếu, chuẩn bị xe kiệu, tạnh mưa ta đến điện Cần Chánh”. Tĩnh Túc lập tức đi phân phó người làm ngay. Thái hậu vào điện Cần Chánh, bà ngồi lên tràng kỷ, nhìn Hoàng Thượng rồi nói: “Quan gia còn trẻ, thỉnh thoảng cũng nên ra ngoài dạo chơi, đừng chỉ ở trong điện phê tấu chương lại thấy ngột ngạt, lao tâm lao lực”. Ngài chống một tay lên trán, nói: “Anh em trẫm bị giam lỏng trong nội cung, trẫm làm sao có thể an tâm đi ra ngoài dạo chơi”. Anh phất tay cho người mang lên bài thơ do Tư Thành viết, hàng mày chau lại vẻ nghiêm nghị, đôi mắt chăm chú vào nét chữ rồi nói: “Nhi tử nhìn vào chữ này, vốn vẫn thấy nét mực không phải, chữ này vốn là được viết trước, nét ngang này được thêm vào sau tạo thành chữ bất”. Thái hậu hơi ngước mắt về trước, như giải tâm sự cho Ngài: “Bình Nguyên Vương dù gì cũng là Thân vương, là anh em với con, hai người vốn xưa nay ôn hoà không có hiềm khích, nay vì văn thơ mà làm ra lớn chuyện thì thiên hạ sẽ cười chê. Vả lại xử tội Thân vương tố cáo tội trạng với thiên hạ cũng thật không nhẫn tâm. Hắn là vô tình cũng được, là bị người ta hại cũng được. Tội chết có thể miễn, tội sống khó tha, chi bằng phạt trượng rồi cắt bổng lộc một năm. Chúng ta phạt như thế cũng là để răn đe những kẻ có dã tâm ngấm ngầm chia rẽ, cũng là để tỏ cái đức bao dung độ lượng của Hoàng thất. Quan gia thấy thế nào”. Từng đứng sau tấm rèm châu xử lý ổn thoả mọi việc, bà đã ra quyết định thì đều là nhãn quan quang nhìn xa trông rộng vì đại cuộc, hợp tình hợp lý cả. Đồ nội thất vàng bạc trước mắt cứ nặng nề mà lấn chiếm dồn con người vào góc đại điện mênh mông. Hàng mi của Quan gia dần buông xuống mà nhắm lại, anh mệt mỏi nói: “Trẫm xin nghe theo lời dạy của mẫu hậu, cứ làm như vậy đi”. Kể từ đó, không quan lại nào dám lên tiếng tán thưởng Tư Thành ngoài miệng nhưng trong lòng họ vẫn luôn cung kính. Thái hậu lần này vốn không hề muốn triệt hạ Bình Nguyên Vương mà chỉ là muốn lập uy nhằm lấy lại thể diện cho Quan gia. Đến khi Ngô Sùng viên tỉnh dậy sau cơn sốt mê man trên giường và Tư Thành bị phạt trượng quay về phủ cũng đến trưa hôm sau. Bầu trời ửng nắng nhạt, từng luồng nắng chiếu lên mái ngói Thái miếu làm những lớp bụi bay lên trong không khí. Tư Thành đến thăm mẹ đúng lúc Kim Huyền vừa đến, cô cúi đầu nói: “Dân nữ bái kiến Bình Nguyên Vương, bái kiến Lệnh bà”. Tư Thành đang lo lau trán cho mẹ chưa thể đáp lời, nàng nói tiếp: “Dân nữ đem đến ít cháo nóng mong lệnh bà dùng lấy lại sức, không biết lệnh bà thấy đỡ hơn chưa ạ”. Đôi mắt Tư Thành nặng trĩu, mơ hồ chứa đầy nỗi lo lắng. Mẹ anh chưa bao giờ phải nằm bệnh nặng như vậy, từng sung sướng an nhàn, kẻ hầu người hạ, giờ đây sa cơ thất thế thì còn được gì. Tư Thành nhìn mẹ rồi nói: “Đa tạ cô đã quan tâm, mẹ ta cũng đã tỉnh táo hơn rồi, chỉ là người còn nóng”. Vừa dứt lời hắn cầm chặt tay mẹ như sợ ai cướp mất đi Kim Huyền hướng về phía Tư Thành hỏi với vẻ lo âu, sốt ruột: “Hôm qua đến giờ có thái y trong cung đến bắt mạch cho lệnh bà chưa ạ”. Tư Thành lắc đầu não nề rồi thở dài ra một hơi. Bởi vì là lãnh phạt, nên Thái y không được phép đến bắt mạch. Kim Huyền liền nói: “Để tôi gọi đại phu bên ngoài đến, nhìn sắc mặt lệnh bà tôi vẫn chưa thấy an tâm”. Trong lúc Tư Thành đi theo đại phu sắt thuốc, Kim Huyền đến bên giường Ngô Sùng viên ngồi. Tuy cô với bà không thân không thích, cũng chỉ mới gặp nhau một lần, nhưng cô thấy người hoạn nạn thì liền giúp, bà rất quý cô. Ngô Sùng viên gắng nói trong hơi thở dốc: “Đa tạ ơn đức của cả gia đình con, nhờ có mẹ con con mà cả nhà ta mới có thể bảo toàn đến lúc này”. Khoé mắt Kim Huyền dãn ra mang ý cười thân mật, cô đáp: “Bẩm Lệnh bà mẹ con con có làm được gì lớn lao đâu ạ, giao tình giúp người lúc khó là việc nên làm cả thôi thưa Lệnh bà”. Tay Ngô Sùng viên đặt hờ lên tay cô vẻ cảm kích không ngừng, khoé mắt bà ươn ướt không nói nên lời. Người trong hoàng cung đều thượng đội hạ đạp. Bà vừa ý quân vương thì có biết bao kẻ lấy lòng, đến khi thành goá phụ vô dụng thì may thay vẫn còn nhận được tấm chân tình. Với bà thì đổi tấm lòng của cả gia đình Trinh Quốc công bằng nghìn vàng cũng chẳng xứng. Thoáng chốc mùa thu cũng gần hết. Từng làn gió heo may vào độ cuối thu lướt nhẹ trên những khung cửa chạm trổ hoa văn long tranh lửa uy nghi trong hoàng thành. Quan gia đang uy nghi ngồi trên bệ rồng nghe các quan vào tâu chính sự. Viên quan tổng quản bước lên tâu: “Bẩm Thánh Thượng, tình hình sạt lỡ vùng cao tuy đã phần nào giảm đáng kể nhưng hoạ chắn núi để lại quá lớn, triều đình cần mở quốc khố, tiếp lương cho dân”. Quan gia mở đến trang tấu chương của ông, liền đặt con ấn đỏ lên rồi nói vọng xuống: “Trẫm giao việc này cho khanh định liệu, chỉ là dùng hết bao nhiêu thì phải báo rõ, ghi chép kĩ càng”. Ngài ấy cúi đầu đáp: “Thần tuân lệnh”. Ngập ngừng rồi liền nói tiếp: “Đông Đạo là vùng phức tạp hiểm trở, xung quanh lại có cường đạo thổ phỉ nhiều lần làm loạn, thần chỉ lo thân già này không tài nào một mình đảm đương trọng trách”. Quan gia trầm ngâm, nói: “Thần tử đem sức lực phụng sự triều đình là việc nên làm. Ta thấy khanh tận trung với quốc gia cũng nhiều năm, thế thì khanh muốn ai đi cùng”. Đồng Tổng quản bước lên nói: “Theo thần thấy vùng Đông Đạo cần cử quan lại công thần chức lớn quyền trọng đích thân thị sát hoạ chăng mới dẹp yên thưa Thánh Thượng”. Quan gia đứng dậy đi xung quanh ngai rồng, lo nghĩ, nói: “Từ đời Thái Tổ, đây đã là vùng đất khó cai quản, dân đen cách xa kinh thành hàng vạn dặm, bọn ác bá tung hoành, lần này thực phải trừ đôi hoạ”. Trong đại điện bắt đầu có tiếng bàn tán xôn xao, không ai biết cử ai để thi hành đại sự lần này. Tư Thành lúc bấy giờ đứng ở hàng Thân vương trầm mặc, chợt bước lên, dõng dạc nói: “Bẩm Thánh Thượng, thần xin được lãnh chỉ đến Đông Đạo”. Quan gia đứng trên cao nhìn xuống, nghi hoặc, nói: “Khanh trước giờ không quen xông pha đối đầu nơi biên cương như Đông Đạo”. Tư Thành quả quyết quỳ chắp hai tay tâu: “Thần tự biết mình hèn mọn, đọc kinh thư nhưng không quên rèn binh đao, thân mang tước vị Thân vương ăn bổng lộc triều đình không cống hiến thì lấy làm thèn với tả hữu”. Ngài phất tay, nói: “Nếu Bình Nguyên Vương có lòng ,thì ta sẽ đồng thuận, ta sẽ cho phái thêm binh mã hỗ trợ”. Tư Thành cúi đầu cảm tạ, sau buổi chầu, tiếng vó ngựa liền vang lên trong sân nội đình, Tư Thành dẫn đầu tiến về vùng Đông Đạo. Thấy hôm nay có vẻ chồng lên chầu triều đình trễ hơn mọi ngày, Nguyễn Phu nhân sốt ruột đi đi lại lại trong nhà. Kim Huyền đứng một bên rót chè nóng vào tách chờ cha về, cô dịu dàng nói: “Mẹ đừng cả lo đến thế mà bất an ạ, cha chắc là nán lại nhà vị nào nên về trễ hơn mọi khi thôi”. Bà thở dài không yên, rồi có gia nhân đến báo: “Bẩm bà, ông đã về”. Nguyễn Đức Phu nhân bước ra đến cổng đón, hỏi: “Sao hôm nay ông về trễ thế, thượng triều có việc gì chăng, làm cả phủ ta đứng ngồi chẳng yên”. Ngài Nguyễn Đức tháo mũ ô sa đưa cho gia nhân rồi bước vào nhà vẻ mệt mỏi nói: “Sáng nay tứ điện hạ đích thân đến Đông Đạo tiếp tế lương thực cho dân vùng đấy, ta phải ở lại đưa tiễn”. Bà lúc này mới nhìn sang Kim Huyền, nở nụ cười mang đầy ý vị, nói: “Thế sao, tứ điện hạ văn võ song toàn, mang cái trí của quân tử đọc Thánh hiền mà dụng vào việc đời”. Ngài tiếp lời nói: “Vùng núi Đông Đạo đấy vốn chẳng dễ dàng gì, ta chỉ e Tứ Điện hạ nhọc lòng nhưng chẳng thể làm được gì, lành ít dữ nhiều”. Kim Huyền nghe đến đấy thì nét mày vội chau lại trong giây lát, cách biệt lâu không gặp, cô không rõ tâm tư anh. Chốn rừng thiêng nước độc, dấn thân như thế liệu có chí sinh tồn?. Có sự hỗ trợ của quan viên địa phương, việc Thân vương thân mình lên cứu dân thoát nạn là việc trọng đại. Nhưng anh không muốn làm vẻ vang nên đã dặn mọi việc chỉ làm trong âm thầm. Chẳng những cứu lương dân khỏi nạn đói, Tư Thành còn tương kế tựu kê giăng bẫy bắt đến tận nơi sào huyệt bọn cướp có tiếng man rợ ở vùng ấy. Nhân dân vô cùng kính trọng và biết ơn anh.