Hoàng Phi

Chương 3 : BIẾN CỐ HOÀNG THẤT ( Hạ )

Chương 3: BIẾN CỐ HOÀNG THẤT ( Hạ ) Ngô Sùng viên bây giờ thân cô thế cô, bà cũng chỉ còn Nguyễn Đức thị là chỗ người thân quen cũ làm chỗ dựa. Khi được cung nữ dẫn vào trong gặp mặt, Như Huệ liền quỳ xuống, không nén nổi nước mắt: “Bẩm Quốc công, ở Thái miếu chỗ Lệnh bà tôi ở có lính trong cung đến canh giữ nghiêm ngặt, nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Ông đứng dậy hành lễ với Ngô Sùng viên rồi đáp: “Ta có nghe qua ý chỉ của Quan gia muốn phái cẩm y vệ canh giữ Thái miếu vì hay xảy ra trộm vặt trộm vàng bạc thờ cúng. Nhưng không nghe chỉ đích danh Lệnh bà cần canh giữ. Bọn chúng có đưa thánh chỉ có ngự bút của Bệ hạ (*) không”. Kim Huyền chứng kiến hết tất cả, tâm nàng như gợn sóng không yên. Cô chỉ có duyên gặp bà một lần nhưng vốn đã được nghe cha mẹ nói tiếng tốt của bà từ trước nên không khỏi kính ngưỡng. Tâm trạng cô khi này bàng hoàng và xúc động không kém người trong cuộc. Hai hàng nước mắt bất giác kéo dài trên khuôn mặt cô. Kim Huyền đi báo tin cho mẹ biết, Nguyễn phu nhân từ trong buồng đi lên nói thêm vào một câu: “Nay Lệnh bà đã ra khỏi đó, hay là nán lại nhà chúng ta rồi nghĩ cách, dù rằng nói là canh giữ chứ không phải là giam lỏng Lệnh bà”. (*) Danh xưng khác chỉ Quan Gia, nghĩa là vua Con bà hiện giờ sống chết chưa rõ, sao bà có thể an tâm nán lại được chứ, Ngô Sùng viên hỏi: “Xin Ngài quốc công hãy nói rõ cho ta biết Tứ Điện hạ (*) giờ ra sao, ta thấy lo lắm”. (*) Chỉ Lê Tư Thành, tức con trai Ngô Sùng viên Ngài ấy trầm giọng đáp: “Thưa Lệnh bà, Bình Nguyên Vương cùng các văn nhân bàn luận về Đường Thái Tông và có một bài thơ bị cho là phản nghịch, đã bị gọi vào Hoàng thành”. Con trai bà mộ văn thơ, nhưng chưa bao giờ bà dạy nó những tư tưởng của một kẻ phản nghịch, coi thường luân lý, tư tưởng đoạt ngôi báu hưởng phú quý. Cho nén việc làm thơ phản nghịch là không thể, khoé mắt Ngô Sùng viên ửng đỏ, có cảm giác nước mắt ngập đầy làm đôi mắt dần nhoè đi. Bên tai bà xuất hiện vô vàn thanh âm ảo giác kêu ù ù. Bà tựa tay vào chồng gối xếp trụ thân mình hỏi: “Thật vậy sao, hay là có kẻ thêu dệt chuyện? “. Trinh Quốc công nắm chặt tay đặt trước bụng, ông nói chắc chắn nhưng sắc mặt nghiêm trọng: “Ta là nghe tin tức từ Nội giám hầu hạ cạnh Quan gia, không thể sai, xin Lệnh bà trấn tĩnh, người còn thì còn cách”. Lòng Ngô Sùng viên như có đợt dậy sóng mạnh, trái tim đau nhói như có gai nhọn đâm vào tê tái. Lúc này, tình mẫu tử trỗi vượt dữ dội, lòng bà hết dậy sóng lại quặn thắt. Nhưng khi này chỉ có bà mới can thiệp được vào việc này, bà dù gì cũng là phi tần tiên đế. Trong cung một khi có biến động với các thân vương diễn biến sẽ xảy ra rất nhanh, bà liền nghĩ ra cách để đi cứu con mình. Trong thoáng chốc, bà liền nói: “Ta cần Ngài giúp đỡ vào trong Hoàng thành cầu xin Thái hậu”. Khi gặp hoạn nạn, phàm là người thân với nhau thì mới có ân tình cứu giúp. Người đưa tay ra làm hành động nghĩa hiệp thì ít, người thừa nước đục thả câu thì nhiều. Giữa Thái hậu và Ngô Sùng viên trước giờ không có thân tình nếu không muốn nói là đối đầu. Nguyễn Phu nhân can ngăn: “Việc này thiếp thị nghĩ không thể cầu xin Thái hậu, trước giờ tính khí Thái hậu quả quyết, nóng nảy, hay là người hãy đi cầu xin Bệ hạ”. Tay Ngô Sùng viên run rẩy cầm chuỗi Phật châu bằng cẩm thạch lần từng hạt, bà nói: “Lần này là việc phạm vào đại kỵ, mang tư tưởng bất chính, Thái hậu chắc chắn sẽ can dự, xin hãy giúp ta, già này xin bằng lòng mang ơn”. Liên quan đến Hoàng vị, Thái hậu chắc chắn sẽ không thể ngồi yên. Chuyện này Hoàng Thượng cần xử trí công tâm nên Ngô Sùng viên muốn cầu cho con cũng không thể. Nguyễn Phu nhân thở dài: “Có chén canh gà thuốc bắc thiếp thị làm, mong Lệnh bà nếm qua, giờ trong cung đang là giờ dùng bữa, có vào cũng chưa dễ gặp được Thái hậu, hay là người ngồi đây dùng thức này lót dạ, rồi thiếp thị sẽ sắp xếp”. Dứt lời Nguyễn Phu nhân ra ngoài phân phó cung nhân mang thêm xe ngựa đến, xong mọi việc bước vào thì Ngô Sùng viên cũng vừa thay xong y phục. Bà theo Nguyễn Phu nhân lên xe ngựa, về hướng Hoàng thành. Đã lâu lắm rồi Ngô Sùng viên không bước vào nơi này, mái vàng tường son, trang nghiêm lộng lẫy. Cửa điện Thừa Thiên mở, Tĩnh Túc mất hồi lâu mới nhận ra bà, nàng ta cất giọng cung kính mà mỉa mai: “Tưởng là khách quý nào, thì ra là Lệnh bà, không biết Lệnh bà từ Thái miếu đến đây có việc gì”. Ngô Sùng viên đáp: “Ta muốn gặp Thái hậu cầu xin một việc”. Tĩnh Túc liếc mắt nhìn vào bộ y phục màu xanh rêu có phần cũ kỹ, mang theo vài phần khinh miệt nói: “Ở Thái miếu còn chưa cung ứng đủ cho Lệnh bà hay sao mà người còn đến đây xin thêm, bây giờ Đức bà đang nghỉ trưa, nếu Lệnh bà muốn thì theo tôi vào trong chờ khi Ngài dậy rồi vào yết kiến”. Bà theo Tĩnh Túc vào một tiểu đình đứng chờ, có cung nữ dâng lên cho bà đĩa đậu xanh nhưng bà vẫn chẳng màng đến. Bà ra gần mái hiên đứng ngóng vọng về phía chính điện. Từng cụm mây đen nặng trĩu bắt đầu rơi xuống mái ngói vàng vài hạt mưa rồi dần dần thành một màn mưa trắng xoá. Những hạt mưa rơi trên mái ngói xuống tạo thành từng hàng như những hạt ngọc trai trong chiếc màn thuỷ tinh lấp lánh che khuất dáng người Ngô Sùng viên trong màn mưa. Kim Huyền vào phòng mẹ, sốt ruột hỏi: “Thưa mẹ, tình hình mẹ con Bình Nguyên Vương thế nào rồi”. Mi mắt Nguyễn Phu nhân nặng trĩu, bà đáp: “Lệnh bà đã vào cung cầu xin Thái hậu rồi, chúng ta chỉ còn biết chờ tin”. Cùng lúc đó Trinh Quốc công cũng bước vào, bà nói một câu không nhằm vào ai: “Cùng là kiếp hồng nhan, cùng chồng chung chưa dễ ai nhường ai”. Trinh Quốc công nghe vậy thì hiểu nên thở ra một hơi rồi nói: “Khi Tiên đế băng hà, ấu vương còn nhỏ, Thái hậu buông rèm nhiếp chính, tin chắc sẽ không có lòng dạ hẹp hòi tính toán”. Lần này an nguy của mẹ con Bình Nguyên Vương đều đang treo trên một sợi tóc mỏng manh, chỉ có thể hy vọng. Kim Huyền ánh lên vài tia thương cảm đến trước bàn Phật môn khấn vái: “Mong trời Phật phù hộ mẫu tử Bình Nguyên Vương bình an, tai qua nạn khỏi”. Sau mấy canh giờ trời mưa không dứt, Thái hậu vừa thức thì trời cũng vừa tạnh mưa..Bọn cung nữ xúm xít chạy vào dâng chậu, khăn cho bà lau mặt, số khác thì búi tóc cài trâm. Tĩnh Túc vào bẩm có Ngô Sùng viên chờ bái kiến, bà gật đầu rồi Tĩnh Túc ra báo với Ngô Sùng viên: “Thái hậu đã thức dậy, mời lệnh bà vào trong”. Bước qua dãy trường lang dài quanh co, Ngô Sùng viên vào gian chính trong tẩm điển. Có tất cả mười một gian, ở gian giữa vừa vào đã thấy một chiếc ghế làm bằng gỗ quý khắc hình phượng hoàng tôn quý. Trước mắt bà ánh lên ánh sáng châu báu sáng láng. Thái hậu từ trong bước ra, cung nữ theo sau ra hai hướng đứng hầu hai bên, bà ngồi an định, trông uy nghiêm vô cùng. Theo lẽ Ngô Sùng viên thấp người thi lễ: “Thiếp thị bái kiến Thái hậu, Thái hậu thiên tuế”. Năm xưa vốn Ngô Sùng viên từng là sủng phi của Tiên đế, nay nhìn người xưa từng đắc ý hô lên hai chữ “thiên tuế” bà rất thống khoái. Bà nói: “Đứng lên, ban toạ”. Rồi cho tả hữu lui xuống, Thái hậu chậm rãi cầm tách trà, không thèm đưa mắt nhìn, chỉ liếc mắt sang Tĩnh Túc. Cô đứng cạnh, nói: “Bà đến đây có việc gì”. Ngô Sùng viên liền khom gối cung kính đáp: “Thái hậu anh minh xin người làm chủ cho con trai của thiếp thị, thiếp thị xin lấy cái mạng mình ra đảm bảo nó không dám làm những chuyện to gan như vậy”. Chiếc nhẫn quý cẩn ngọc trên tay Thái hậu phát ra tia sáng kim loại lạnh băng, bà cất tiếng nói không nhanh không chậm nhưng lại chứa đầy uy quyền: “Con trai quý của bà đem chuyện Đường Thái Tông ra bàn luận có ý nói về Quan gia, việc này các quan văn đều nghe thấy và có thể làm chứng, lợi dụng thư kinh, ngôn hành bất kính, khi quân phạm thượng. Chừng nào Thái hậu ta còn sống, quyết trừ loạn thần tặc tử, Hình Bộ sẽ làm chủ cho con trai bà”. Hình Bộ xưa nay là nơi tra khảo phạm nhân tàn khốc, lúc vào tứ chi khoẻ mạnh, lúc ra hình hài tàn phế. Nước mắt đã giàn giụa khắp khuôn mặt Ngô Sùng viên tự lúc nào, bà cố nén không cho tiếng khóc trào ra nói: “Thiếp thị là mẹ nó, hằng ngày đều không dạy nó trái đạo làm tôi, huống chi từ trước con của thiếp thị cùng với Hoàng Thượng như anh em ruột, sao có thể được thưa Lệnh bà”. Trong điện rộng lớn lúc này đây lại càng yên ắng như tờ, tựa ai mang dây đàn thuỷ tinh giăng tứ phía. Bà liếc mắt nhìn Ngô Sùng viên: “Cũng chính vì Hoàng Thượng xem con trai bà như người nhà mà đã quên mất đạo quần thần, được voi đòi tiên. Con hư tại mẹ, chính bà cũng không tránh khỏi liên luỵ”. Ngô Sùng viên quỳ xuống, đầu gối mềm nhũn trên nền gỗ cứng nhắc, bà nói: “Thiếp thị biết tội mình ngu dốt không thể dạy con theo thiên ý. Xin Thái hậu hãy nghĩ tình Tiên đế năm xưa đều yêu thương cả hai như nhau mà tha chết cho con trai của thiếp”. Nói xong Ngô Sùng viên dập đầu, cả người run lên từng đợt, tóc tai rũ rượi. Nghe nhắc đến Tiên Đế, lòng Thái hậu chợt mềm lại. Đôi mắt bà trở nên trong veo tựa như mặt hồ phản chiếu những năm tháng còn là phi tử hầu hạ Thái Tông. Đấng chí tôn mà bà từng thương cả đời vì đại nghĩa, khoan hồng kẻ dưới. Dù cho trong lòng gợi nhiều tâm sự nhưng bà vẫn phong thái nghiêm nghị ngồi ngay ngắn trên phượng vị, giọng nói nhẹ như không nhưng phát ra hàn khí không chút lưu tình: “Ra ngoài sân quỳ đến khi trời mưa, ta sẽ tha cho”. Tuổi cũng đã cao, nhiều năm qua tuy bà có quỳ trước bàn Phật nhưng là quỳ trên đệm gấm, nhưng đây là đất đá lạnh lẽo. Đầu gối Ngô Sùng viên tê tái chịu áp lực đè lên những hòn đá, dường như mất cảm giác. Bà chắp hai tay khẩn cầu trời cao thương xót ban cho một cơn mưa để rửa sạch oan khuất. Khoảng sân rộng lớn phủ bóng những áng mây đen bắt đầu kéo đến ngày một nhiều. Tĩnh Túc nhìn ra ngoài trời rồi chạy vào báo với chủ: “Đức Bà, nãy giờ cũng đã được một canh giờ, Ngô Sùng viên dù gì bà ta cũng không can dự trực tiếp, hay là cho đứng lên”. Thái hậu đang lần tay trên giá sách tìm sách Phật pháp, bà nghe nói vậy thì nhẹ giọng: “Thôi được, phạt quỳ vốn để cảnh cáo, cho đứng lên đi”. Vừa lúc đó, trời cũng vừa đổ mưa, Ngô Sùng viên hai mắt nhắm nghiền, đầu óc xoay tròn. Cuối cùng người bà không trụ vững nữa, ngã ra nền đất ngập nước mưa.